Kêu cứu vì cho rằng bị “gây khó”
Trong lá đơn kêu cứu gửi tới Báo Sức khỏe và Đời sống, bà Trần Thị Nhì (SN 1952, trú tại thôn Kiều Thượng, xã Quốc Tuấn, huyện An Dương, Hải Phòng) cho biết, gia đình bà đang quản lý và sử dụng 290m2 đất tại thôn Kiều Thượng, xã Quốc Tuấn (thửa đất số 112, tờ bản đồ số 15). Mảnh đất này là một phần của thửa đất diện tích ban đầu là 650m2 thuộc xứ đồng Khu Dộc Nải Ngõ Sơn, do cha ông nhà chồng để lại.
Năm 1972, hợp tác xã đào mương dẫn nước tưới tiêu, chạy qua nhà đất thổ cư của gia đình chồng bà Nhì. Vì vậy, gia đình chồng bà Nhì được chính quyền cấp bù cho thửa đất 650m2 nêu trên. Là con lớn trong gia đình, nên năm 1980 vợ chồng bà Nhì được bố mẹ chia cho 290m2 để quản lý và sử dụng riêng.
Tới năm 2004, chính quyền xã lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho gia đình (trong đó bố chồng bà đứng tên 360m2, vợ chồng bà đứng 290m2), hồ sơ được Hội đồng Quản lý ruộng đất xã Quốc Tuấn xét duyệt và đã được UBND huyện An Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thổ cư. Kể từ đó, gia đình bà Nhì quản lý, sử dụng ổn định thửa đất cho tới nay và không xảy ra tranh chấp với bất cứ ai. Gia đình cũng không được nhắc là GCNQSDĐ đã cấp có sai sót.
Năm 2018, chồng bà Nhì không may mắc bạo bệnh qua đời, không để lại di chúc. Sau đó, gia đình đã liên hệ văn phòng công chứng An Dương lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế phần quyền sử dụng đất của chồng bà Nhì. Văn phòng công chứng An Dương đã gửi văn bản khai nhận thừa kế đến UBND xã Quốc Tuấn thực hiện niêm yết.
Tuy nhiên, tới ngày 10/2/2022, chị Nguyễn Thị Nhung (con gái bà Nhì) đã đến xin kết quả niêm yết văn bản, thì ông Nguyễn Văn Bến, Chủ tịch UBND xã Quốc Tuấn xác nhận: “Trong thời gian niêm yết từ ngày 18/1/2022 đến ngày 10/2/2022, UBND xã không nhận được khiếu nại nào về nội dung thông báo. Về nguồn gốc thửa đất trong thông báo, công chức địa chính xã xác định nguồn gốc chưa rõ ràng”.
Để xác minh nguồn gốc thửa đất trên, UBND xã Quốc Tuấn đã làm việc với các nhân chứng là: Ông Nguyễn Văn Đương (nguyên Đội trưởng Đội sản xuất số 12, giai đoạn 1980-1986) và bà Nguyễn Thị Kha (nguyên kế toán trưởng thôn Nhu Thượng); ông Nguyễn Văn Vinh (nguyên cán bộ địa chính xã Quốc Tuấn) thời điểm năm 2004. Ông Vinh tự nhận là đã sai khi không có hồ sơ cấp bù đất năm 1972, chỉ dựa vào lời khai của các cụ cao niên trong làng khi lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho bà Trần Thị Nhì.
Cần cách giải quyết thấu tình, đạt lý
Bức xúc trước sự việc trên, gia đình bà Nhì đã khiếu nại tới UBND xã Quốc Tuấn, UBND huyện An Dương để được xem xét, giải quyết. Ngày 22/6/2022, văn phòng UBND huyện An Dương đã thừa lệnh Chủ tịch huyện hướng dẫn công dân gửi đơn khiếu nại tới Chủ tịch UBND xã Quốc Tuấn để được giải quyết theo thẩm quyền.
Trao đổi với PV Báo Sức khỏe và Đời sống, ông Phạm Việt Hùng, Chủ tịch UBND huyện An Dương (TP Hải Phòng) cho biết, huyện đang chỉ đạo giải quyết vụ việc.
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Bến, Chủ tịch UBND xã Quốc Tuấn thông tin, trong hồ sơ địa chính lưu tại UBND xã Quốc Tuấn, phần diện tích 290m2 đất nêu trên ghi là loại đất đấu thầu (hay còn gọi là đất 5%). Hơn nữa phần diện tích trên chưa thể hiện việc nộp thuế phi nông nghiệp hằng năm (thể hiện ở cơ sở, cụ thể là trong sổ thanh toán thuế được kế toán thôn Kiều Thượng ghi chép do bà Mừng cung cấp cho xã).
Tuy vậy, khi PV đề nghị cung cấp sổ để đối chiếu, ông Bến lại nói không thu thập, nhưng có lập biên bản lời bà Mừng. Tuy vậy khi nghiên cứu hồ sơ, PV nhận thấy tại biên bản làm việc ở xã Quốc Tuấn ngày 14/3/2022, bà Nguyễn Thị Mừng (nguyên kế toán thôn Kiều Thượng) chỉ cho biết: “Tại sổ kế toán của thôn được bàn giao từ năm 1998, thì phần đất này được ghi là đất hai lúa”. Không có bất cứ câu từ nào, bà Mừng nói về việc thuế má đối với phần diện tích nêu trên.
Ngoài ra ông Bến cũng thừa nhận, nhà cụ Lãnh (bố chồng bà Nhì) không có hồ sơ cấp bù đất năm 1972 nên UBND xã Quốc Tuấn phải báo cáo xin ý kiến để UBND huyện An Dương về xác minh, kiểm tra.
Luật sư Đào Thị Liên – Công ty Luật TNHH Tiền Phong (Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội, là luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bà Trần Thị Nhì) cho rằng, về nội dung xác nhận niêm yết, cần phải thực hiện theo khoản 2, khoản 3 (Điều 18, Nghị định 29/2015/NĐ-CP) của Chính phủ.
Theo đó, xác nhận của đại diện UBND xã Quốc Tuấn trong văn bản niêm yết về thừa kế chỉ được trong phạm vi: “Có khiếu nại, tố cáo về việc bỏ sót, giấu giếm người được hưởng di sản thừa kế; bỏ sót người thừa kế; di sản thừa kế không thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người để lại di sản hay không”.
Việc UBND xã Quốc Tuấn có thêm ý kiến: “Nguồn gốc thửa đất chưa rõ ràng” đối với việc phân chia thừa kế của gia đình bà Nhì là không đúng với Nghị định trên của Chính phủ. UBND xã Quốc Tuấn đang lẫn lộn giữa thủ tục đất đai và thủ tục hành chính trong việc xác nhận niêm yết văn bản khai nhận thừa kế.
Có thể thấy, hai thửa đất mà gia đình bà Trần Thị Nhì và gia đình ông Nguyễn Văn Lãnh được cấp GCNQSDĐ cùng có chung nguồn gốc là ông cha để lại. Thông tin thửa đất của bà Trần Thị Nhì như sau: Diện tích 290m2, số vào sổ 3376, số phát hành của tổng cục QLRĐ:640, số quyết định cấp giấy chứng nhận 15-112, thời hạn sử dụng: Thổ cư, lâu dài (nguồn gốc do cha ông để lại). Thông tin nguồn gốc này cũng phù hợp với hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho hai bố con. Như vậy, xét về nguồn gốc đất là hoàn toàn rõ ràng và thống nhất trong hồ sơ, nhận định của UBND xã Quốc Tuấn là chưa chính xác.
Luật sư Liên phân tích: “Hồ sơ đã được Hội đồng ruộng đất xã Quốc Tuấn thời điểm đó duyệt và được UBND huyện An Dương mới cấp GCNQSDĐ theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Sau khi cấp GCNQSDĐ thì việc chỉnh lý, cập nhật hồ sơ đất đai là do cán bộ thực hiện, không phải do người dân.
Cụ thể, tại Thông tư 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/01/2004 hướng dẫn về việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính quy định tại Điểm 11 (Mục IV Thông tư 29: Sau khi GCNQSDĐ được cấp mới, Phòng Tài nguyên và Môi trường (hoặc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất) gửi Thông báo trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày GCNQSDĐ để Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện việc chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính gốc và gửi Bản trích sao hồ sơ địa chính gốc đã chỉnh lý, cập nhật cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”.